Lê Quý Đôn
Nhà văn hóa lớn Việt Nam thời Hậu Lê, thưở nhỏ có tên là Lê Danh Phương, sau đổi là Quí Đôn, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Quê làng Duyên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình)
Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng lâu đời, thân phụ là Lê Phú Thứ làm quan triều Lê. Thưở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, có trí nhờ phi thường được người đương thời xem là thần đồng. Năm 1743, đỗ giải nguyên, năm 1752, đỗ nhất giáp nhị danh tiến sĩ (bảng nhãn). Từ thi hương đến thi hội đều đỗ đầu cả. Sau khi thi đỗ được bổ Thị độc tòa Hàn lâm, sung Tư nghiệp Quốc Tử giám. Năm 1760 làm Phó sứ đi sứ Trung Quốc, khi về được phong tước Dĩnh Thành Bá, rồi thăng Hàn lâm viện thừa chỉ, Đốc đồng Hải Dương. Sau chuyển về Kinh làm Tổng tài Quốc sử quán cùng Nguyễn Hoàn khảo duyệt phần Tục biên Quốc sử. Năm 1773, được bổ Phó Đô ngự sử, rồi thăng Hữu thị lang bộ Công, Bồi tụng. Năm 1776 được cử làm Tham thị Tham tán quân cở các đạo Thuận Hóa, Quảng Nam. Sau đó đổi về Thăng Long làm Hành Tham tụng tại triều, được phong tước Dĩnh Thành Hầu.
Ngày 02/6/1784, ông mất tại chức, thọ 58 tuổi. Sau khi mất được truy tặng Thượng Thư bộ Công tước Dĩnh Thành Công.